KỶ NIỆM 50 NĂM THÀNH LẬP VIỆN KINH TẾ BƯU ĐIỆN – HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG (1975 – 2025)

 

Viện Kinh tế Bưu điện đang đứng trước thời khắc ý nghĩa, thời khắc tròn 50 tuổi. Đây là dịp để ôn lại truyền thống, tri ân những đóng góp quý báu, gắn kết các thế hệ cán bộ, nhân viên, giảng viên, nghiên cứu viên, sinh viên và đối tác đã đồng hành cùng Viện trong suốt chặng đường nửa thế kỷ qua.

Viện Kinh tế Bưu điện được thành lập vào ngày 28/5/1975 với tên gọi ban đầu là Viện Kinh tế và Quy hoạch Bưu điện. Ngày 20/12/1979 được đổi tên thành Viện Kinh tế Bưu điện.

· Năm 1997 được coi như một dấu ấn lịch sử về sự đổi mới tiếp theo của Viện Kinh tế Bưu điện. Bởi ngày 11/7/1997, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 516/TTg về việc thành lập Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông trực thuộc Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam) trên cơ sở sắp xếp lại Viện Khoa học kỹ thuật Bưu Điện, Viện Kinh tế Bưu điện, Trung tâm đào tạo Bưu chính Viễn thông 1 và 2.

· Từ ngày 1/7/2014, thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định điều chuyển quyền quản lý Học viện từ Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam về Bộ Thông tin và Truyền thông. Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ. Theo đó, Viện Kinh tế Bưu Điện là đơn vị nghiên cứu khoa học và đào tạo đặt trực thuộc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông được xác định trong Quy chế tổ chức và hoạt động của Học viện.

Giai đoạn 1975 – 1996:

· Nghiên cứu quy hoạch chiến lược, cơ chế quản lý, sửa đổi hệ thống chính sách chế độ về kinh tế cho phù hợp với biến động giá – lương – tiền, nghiên cứu định mức kinh tế kỹ thuật, giá cước bưu chính viễn thông…

· Đặc biệt giải quyết những vấn đề nan giải về chính sách cước viễn thông – một yếu tố gây khó khăn lớn cho ngành Bưu điện thời đó.

Giai đoạn 1997 – 2005:

· Nghiên cứu các hoạt động về tài chính tiền tệ; hình thức huy động vốn phục vụ sự nghiệp phát trển Bưu chính Viễn thông, hiệu quả kinh tế về hợp tác đầu tư, chính sách đầu tư Bưu chính Viễn thông, tham gia công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức tại các cơ sở do Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông tổ chức theo chủ trương 3 gắn kết…. góp phần vào sự thành công của Chiến lược tăng tốc độ phát triển Bưu chính – Viễn thông giai đoạn (1996-2000) của Ngành và các năm tiếp theo..

Giai đoạn 2006–2010:

· Cùng với sự biến động của nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, Viện bước vào giai đoạn khó khăn và nhiều thách thức song với lòng quyết tâm, nỗ lực hết mình và sự đoàn kết nhất trí trong cán bộ công nhân viên, Viện cũng đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao, các kết quả nghiên cứu trong giai đoạn này về cơ bản đáp ứng được ngay các yêu cầu về công tác quản lý, phương án kinh doanh và cơ chế kế hoạch hoá của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp kinh doanh Bưu chính Viễn thông khác trong và ngoài nước.

Từ năm 2010 đến nay:

· Từ năm 2010 – nay, trước những biến động về cơ cấu tổ chức để phù hợp với yêu cầu phát triển của Ngành và doanh nghiệp, Viện Kinh tế Bưu điện vẫn tích cực tạo ra các sản phẩm khoa học công nghệ trong lĩnh vực kinh tế thông tin và truyền thông để phục vụ các mục tiêu về kinh tế và quản lý kinh tế của lãnh đạo các cấp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài Ngành. Các kết quả nghiên cứu hầu hết được Lãnh đạo Bộ TT&TT, Tập đoàn BCVTVN, Lãnh đạo Học viện và các đối tác đánh giá cao, có tính thực tiễn và áp dụng tốt trong công tác quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của đơn vị. Các sản phẩm nghiên cứu tiếp tục được chuyển giao và đóng góp nhiều cho hoạt động đào tạo. Bên cạnh đó Viện luôn chú trọng công tác gắn kết nghiên cứu – đào tạo – sản xuất kinh doanh và coi đây không chỉ là trách nhiệm của một đơn vị thành viên trong Học viện mà đó còn là môi trường để nâng cao năng lực nghiên cứu của các nghiên cứu viên. Viện cũng đã tích cực kế thừa các kết quả nghiên cứu và tiến hành biên soạn các kết quả đó thành giáo án, chuyên đề trực tiếp tham gia giảng dạy, tham gia bồi dưỡng cập nhật và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ.

Trong những năm phát triển của mình, Viện đã tổ chức và động viên cán bộ tham gia một số hoạt động trong lĩnh vực đào tạo như: Tổ chức các lớp đào tạo phương pháp luận nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thị trường… cho các đối tác Lào, Myanmar, các môn học kỹ năng mềm cho sinh viên của Học viện, cung ứng dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng cho các doanh nghiệp trong và ngoài Tập đoàn theo một số nội dung nghiên cứu như Marketing, Quản trị nguồn nhân lực, Xử lý dữ liệu do chính cán bộ nghiên cứu của Viện trực tiếp giảng dạy; cung cấp dịch vụ tư vấn về quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp dựa trên thế mạnh của đơn vị và nhu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài Tập đoàn như: nghiên cứu thị trường, quản trị nguồn nhân lực, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật, thu thập và xử lý dữ liệu… để biến những kiến thức kinh nghiệm nghiên cứu thành sản phẩm có thể chuyển giao dưới dạng hợp đồng kinh tế.

Về đào tạo:

· Từ năm 2012: Viện được Học viện giao phụ trách đào tạo chính quy với ngành Marketing. Sau đó nhằm mở rộng phạm vi và quy mô đào tạo, viện đã mở thêm 2 ngành đào tạo mới là Quan hệ công chúng và ngành Marketing chất lượng cao. Đến nay ngành Marketing đã có nhiều khóa sinh viên tốt nghiệp ra trường và có những đóng góp đáng kể cho xã hội trong lĩnh vực chuyên môn từ ngành học.

· Từ 2021: Viện tiếp tục được Học viện giao đào tạo đại học hình thức vừa làm vừa học nhằm đa dạng hóa hình thức học tập và nâng cao cơ hội học tập cho người học/xã hội. Qua đó góp phần mở rộng quy mô đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội, đồng thời tăng nguồn thu đào tạo theo kế hoạch chung của Học viện, mở rộng 4 ngành: Công nghệ thông tin, Điện tử viễn thông, Quản trị kinh doanh, Kế toán.

· Hiện nay, Viện đang triển khai tổ chức, quản lý đào tạo 4 ngành đối với đại học hình thức vừa làm vừa học bao gồm Kỹ thuật điện tử viễn thông, Công nghệ thông tin, Quản trị kinh doanh và Kế toán. Trong thời gian tới, Viện đề xuất Học viện mở thêm chương trình đào tạo ngành Truyền thông đa phương tiện và 1 số ngành khác mà Học viện có thế mạnh đáp ứng với nhu cầu nguồn nhân lực cho chuyển đổi số quốc gia.

· Với định hướng là một cơ sở giáo dục đại học, nghiên cứu và ứng dụng, Viện đã và đang thực hiện đa dạng hóa các phương thức đào tạo, mở rộng các hình thức liên kết đào tạo với các trường đại học, đặc biệt liên kết với nhiều trường

đại học quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng đòi hỏi nguồn nhân lực số của đất nước.

Về nghiên cứu khoa học:

· Viện đã tham gia thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm; sản xuất kinh doanh sản phẩm là kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; làm dịch vụ khoa học và công nghệ; Triển khai hoạt động nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản, nghiên cứu đón đầu, dự báo phát triển; nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực kinh tế của ngành Thông tin – Truyền thông và các lĩnh vực khác; Tổ chức nghiên cứu, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật chuyên ngành đối với các lĩnh vực hoạt động trong chức năng quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông, nay là Bộ Khoa học công nghệ ; Tổ chức nghiên cứu và tham gia xây dựng các chính sách về giá cước; nghiên cứu, điều tra, khảo sát và phát triển thị trường trong lĩnh vực Thông tin. Các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu KHCN do Viện thực hiện đều tập trung giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn của ngành và xã hội. kết quả của các đề tài, nhiệm vụ đều được áp dụng ngay vào thực tế, có thể phát triển thành sản phẩm đã và đang triển khai cho các đơn vị liên quan trên địa bàn cả nước.

Trên cơ sở những định hướng vươn mình của đất nước; tầm nhìn, chiến lược phát triển toàn diện của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, với kinh nghiệm học hỏi từ các đối tác trong nước và quốc tế, Viện định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035 là Viện nghiên cứu và đào tạo hàng đầu về đổi mới sáng tạo và kinh tế số. Trong đó lấy chuyển đổi số sẽ là điểm đột phá để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, Giáo dục đào tạo. Sớm trở thành hình mẫu trong chuyển đổi số quốc gia với 3 trụ cột: Hệ thống quản trị số; Cung ứng dịch vụ số; Phát triển xã hội số.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *